Thứ Hai, 4 tháng 2, 2013

Con người của ba nền văn hóa


Mới đây, vào Huế, tôi được gặp nhà văn Nguyễn Khắc Phê, em trai bác sĩ Nguyễn Khắc Viện – một nhà văn hóa lớn. Anh Phê tặng tôi cuốn sách mới in về thân phụ anh là cụ Hoàng giáp Nguyễn Khắc Niêm và cho biết sang năm 2013, gia đình và bè bạn sẽ tổ chức kỷ niệm 100 năm Ngày sinh bác sĩ Nguyễn Khắc Viện. Tôi viết bài viết này cho Báo Đà Nẵng số Xuân Quý Tỵ, như thắp một nén hương tưởng nhớ người quá cố.
 

Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện ở Paris.
Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện ở Paris.

Kể lại lần gặp bác sĩ Nguyễn Khắc Viện tại Paris vào năm 1960, Charles Fourniau, tiến sĩ Sử học, Chủ tịch Hội Hữu nghị Pháp – Việt, viết:

"Ngay từ những phút đầu tiên, tôi đã nhận ra rằng ông là bậc thầy của tôi. Và rồi ông mãi mãi vẫn là bậc thầy của tôi. Vốn văn hóa của ông, hay nói đúng hơn, vốn các văn hóa của ông – bởi lẽ ở ông chung đúc tinh hoa của cả ba nền văn hóa Việt Nam, Trung Hoa và Pháp – dường như là vô tận (…). Ông là một trong những người thông minh nhất mà tôi đã gặp trong đời. Nhưng sự thông minh ấy không kèm theo chút nào hào nhoáng cả. Ta không bị lấn át khi tiếp xúc với ông (…). Một phần các tác phẩm của ông được viết thẳng bằng tiếng Pháp – một thứ tiếng Pháp vừa truyền thống vừa hiện đại, trong sáng, chính xác".

Theo C. Fourniau thì Nguyễn Khắc Viện là "một nhà văn Pháp, và là nhà văn đích thực", đồng thời là một "dịch giả phi thường". C. Fourniau cho biết, ông không thể mở Truyện Kiều ra đọc mà lại không xúc động, vì kiệt tác này, và vì cả tài dịch của Nguyễn Khắc Viện.

Báo Văn học Pháp đánh giá bản dịch Truyện Kiều của Nguyễn Khắc Viện, từ nguyên tác tiếng Việt của Đại thi hào Nguyễn Du, cũng hay như bản dịch Thần khúc của Charles Baudelaire từ nguyên tác tiếng Ý của Dante Alghieri. Viện Hàn lâm Pháp tặng Nguyễn Khắc Viện Giải thưởng Lớn về Pháp ngữ (Grand Prix de la Francophonie).

Nguyễn Khắc Viện sành tiếng Pháp, đó là điều hầu như giới trí thức nước ta ai ai cũng biết. Nhưng có lẽ còn nhiều người chưa biết ông khá thành thạo chữ Hán và thỉnh thoảng vẫn làm thơ luật Đường bằng thứ chữ vuông khó bậc nhất thế giới này. Đọc hiểu chữ Hán đã khó. Tư duy bằng Hán ngữ, làm thơ chữ Hán càng khó hơn nhiều! Ngoài sự thông tuệ, còn cần mỹ cảm, tài hoa. Ngay cả người Trung Quốc, đâu phải ai ai cũng viết nổi những câu đáng gọi là… thơ!

Giữa Paris lạnh cóng, sáng mồng một Tết Nhâm Dần (1962), Nguyễn Khắc Viện gửi về nước cho các em ông bài thơ khai bút bằng chữ Hán:

Tha hương liêm hàm tuyết
Phong phiêu vạn lý tình
Viễn xứ vong ly biệt
Đắc tri mẫu đệ tranh.

Một bài thơ năm chữ bốn câu, gọn gàng thế thôi, mà dư âm man mác. Xin được tạm dịch nghĩa:

Chốn quê người, ngoài rèm
            tuyết ngậm
Gió đưa tình quê muôn dặm tới
Nơi xa thẳm, quên nỗi sầu biệt ly
Vì được biết mẹ và em vẫn khỏe.

Sau bài thơ chữ Hán, ông tái bút mấy dòng bằng tiếng Việt:

"Lúc nào các em về làng mình, nhớ viết rõ cho anh biết làng xã thay đổi ra sao, tả con đường từ ngoài sông về bãi Côi, trường Thịnh Xá, chợ Bè, mấy cây đa ngày nay ra sao rồi, đã đắp con đường nào mới, có công trình thủy lợi nào không".

Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện làm việc trên giường bện
Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện làm việc trên giường bệnh (ảnh chụp năm 1997).  Ảnh: Trung Sơn

Biết bao cảm xúc chứa chan trong bài thơ và mấy dòng thư ngắn ngủi ấy! Xa nhà, xa quê gần ba mươi năm, thế mà ông vẫn nhớ như in mấy câu ca dao mẹ ru từ thuở bé:

Nước sông Ngàn Phố trong veo
Chiếc đò xuôi ngược mái chèo
        thảnh thơi
Khi mô lặng gió êm trời
Ta về làng cũ tắm nơi bãi Bè…
Con đò ông Cháu xuôi Vinh
Bưởi bòng chuối mít linh tinh
            một đò
Đêm khuya nghe giọng ai hò    
Nhớ sông Ngàn Phố nhớ đò
                 chợ phiên…

Charles Fourniau quả có "con mắt tinh đời" khi nhận xét ở Nguyễn Khắc Viện "chung đúc tinh hoa của cả ba nền văn hóa Việt Nam, Trung Hoa và Pháp".

Nhà văn hóa Nguyễn Khắc Viện sinh ngày 5-2-1913 tại huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh trong một gia đình Nho học. Cụ thân sinh là Nguyễn Khắc Niêm thông minh xuất chúng, đỗ Hoàng giáp (tiến sĩ bậc cao) khi mới 19 tuổi.

Học tiểu học tại Trường Paul Bert, trung học tại Trường Quốc học (Huế), rồi Trường Bưởi (Hà Nội); chàng trai họ Nguyễn Khắc đỗ tú tài toán và tú tài triết hạng ưu. Sau ba năm theo học Đại học Y Hà Nội, năm 1937, ông sang Pháp học tiếp tại Đại học Y Paris, rồi thi đỗ bác sĩ nội trú (từ mấy chục bác sĩ bình thường mới tuyển được một bác sĩ nội trú). Nhưng sau đó ông bị bệnh lao phổi, lúc bấy giờ chưa có thuốc kháng sinh đặc hiệu để điều trị, cho nên phải lên bàn mổ 7 lần, cắt bỏ hẳn lá phổi bên phải, rồi cắt nốt 1/3 lá phổi bên trái, và lần lượt cắt 8 cái xương sườn!

Trong gần 10 năm nằm điều dưỡng (1942-1951), ông vừa luyện thở sâu theo phương pháp yoga, tọa thiền, vừa học chữ Hán. Ông đọc hiểu Tứ thư, Ngũ kinh, chép tay để suy ngẫm về những danh ngôn của Khổng Tử, Mạnh Tử. Ông cũng đọc sách Lão Tử, Trang Tử; đọc thêm Hán thư, Sử ký, Chiến Quốc sách; ngâm ngợi Đường thi, Tống thi… Nghĩa là học một cách khá cơ bản cổ văn, cổ sử Trung Quốc.

Ông rất mê thư pháp của Vương Hy Chi đời nhà Tấn bên Trung Hoa, và thường tập viết chữ Hán bằng bút lông. Khi ông rời nhà an dưỡng, các giáo sư y khoa người Pháp đều cho rằng ông chỉ có thể sống thêm vài ba năm! Thế nhưng, nhờ kiên trì luyện thở, ông đã sống thêm 35 năm! Không phải sống một cách vật vờ, mà hoạt động xã hội và học thuật căng thẳng, đầy hiệu quả.

Chúng ta càng cảm phục trí tuệ sáng suốt và lòng yêu nước sâu xa của ông khi nhớ lại, trong cải cách ruộng đất, phụ thân ông, cụ Hoàng giáp Nguyễn Khắc Niêm, bị đấu tố, không chịu đựng nổi, đã uất ức qua đời. Thế nhưng, ông không hề vì vậy mà hận thù cách mạng. Bằng lý trí khách quan, tỉnh táo, ông hiểu rằng lúc này hay lúc khác cách mạng có thể phạm sai lầm, nhưng xét toàn cục, cách mạng vẫn mang lại những đổi thay to lớn, vẻ vang cho đất nước, quê hương…

Là cán bộ lãnh đạo chủ chốt của phong trào người Việt Nam yêu nước tại Pháp từ năm 1952 cho đến khi bị chính quyền Pháp – lúc đó thân Mỹ – trục xuất về nước vào năm 1963, nhiều lúc Nguyễn Khắc Viện phải hoạt động bí mật, được các đồng chí cộng sản Pháp cưu mang. Trong tập bút ký Paris – Hà Nội, ông kể lại:

"Tôi đã dự lễ "giao thừa" ở nhà một đồng chí Pháp. Đêm ấy, cùng với con cái, còn có một số đồng chí ở ngoài gia đình chủ nhà nữa. Tôi còn nhớ, trước kia quen thân được một người Pháp, phải cùng nhau học hành, chơi bời hàng năm, thế mà đến lúc người bạn học giới thiệu tôi cùng cha mẹ hay bầu bạn của anh ta, hai bên chỉ lễ phép trao đổi vài câu chuyện xã giao nhạt nhẽo. Trái lại, bây giờ, lúc chủ nhà giới thiệu "anh V, một đồng chí Việt Nam", thì ngay phút sau, giữa những người chưa hề gặp mặt nhau lần nào, câu chuyện liền trở nên thân mật, đậm đà (…). Nhìn ra ngoài cửa sổ, tuyết âm thầm phủ trên mái nhà, nghe gió bấc thổi phũ phàng vùi dập những cành cây trụi lá, lòng tôi không khỏi nhớ đến quê hương xa thẳm, nhưng càng nhớ anh em, bà con trong nước chừng nào, càng thắm thiết chia vui, càng nặng tình thân ái trong đại gia đình những người cộng sản…".

Nguyễn Khắc Viện là một người theo chủ nghĩa quốc tế chân thành và trong sáng. Tết Nguyên đán Quý Mão – 1963, đồng cảm với nỗi nhớ quê hương của Nguyễn Khắc Viện, các đồng chí Pháp không quản khó khăn, gửi mua cho bằng được một cành đào thắm từ làng Nhật Tân bên Hồ Tây, Hà Nội để tặng ông. Cảm kích trước tấm lòng bè bạn, Nguyễn Khắc Viện khai bút bằng thơ chữ Hán:

Song hàm bạch tuyết
           tha hương cảnh
Các mãn đào hoa hữu nghị tình
Tuyết thượng đào hoa
               tăng diễm sắc
Khán hoa trường dạ đãi bình minh.
Có thể tạm dịch nghĩa:
Ngoài khung cửa, tuyết bay
            trắng xóa
Trong căn gác, hoa đào thắm
            tình bè bạn
Trên tuyết trắng, đào càng
            lộng lẫy hơn
Ngắm hoa suốt đêm dài,
            đợi ngày mai sáng đẹp.

Bút tích của Nguyễn Khắc Viện chép bài thơ chữ Hán nói trên.
Bút tích của Nguyễn Khắc Viện chép bài thơ chữ Hán nói trên.

Bị nhà cầm quyền Pháp trục xuất năm 1963 do lãnh đạo phong trào của người Việt Nam yêu nước chống Mỹ, ông trở về Hà Nội, được Nhà nước ta tin cậy cử làm Giám đốc kiêm Tổng Biên tập Nhà xuất bản Ngoại văn, đồng thời giữ chức Tổng Biên tập Báo Le Courrier du Vietnam (Tin tức Việt Nam) và Tạp chí Études Vietnamiennes (Nghiên cứu Việt Nam), tờ báo và tờ tạp chí đối ngoại, viết bằng tiếng Pháp.

Hơn 30 năm làm việc tại Hà Nội, ông đã có những cống hiến xuất sắc trong lĩnh vực văn hóa đối ngoại.

Ngoài việc dịch rất hay kiệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du ra tiếng Pháp, Nguyễn Khắc Viện đã cùng Hữu Ngọc chủ biên bộ Hợp tuyển văn học Việt Nam bằng tiếng Pháp (dày hơn 2.000 trang) và tiếng Anh (hơn 1.000 trang). Bộ sách gây tiếng vang trong giới trí thức phương Tây. Tờ Le Monde (Thế giới), một tờ báo lớn ở Pháp, trong số ra ngày 1-1-1973, viết:

"Vào thời điểm sau cuộc chiến kéo dài 115 năm, mà 30 năm qua chỉ là giai đoạn cuối cùng, nước Việt Nam có thể hy vọng thoát khỏi những kẻ giám hộ nước ngoài, một bộ hợp tuyển các tác phẩm văn học Việt Nam ra đời đúng lúc, cho phép ta hiểu được tiếng nói các bậc tiền bối của dân tộc này (…). Những người dịch đã lựa chọn cách diễn đạt thanh nhã, dung dị mà giàu cảm xúc tinh tế".

Một công trình khác của Nguyễn Khắc Viện là cuốn Vietnam, une longue histoire (Việt Nam, một thiên lịch sử dài lâu) do ông viết thẳng bằng tiếng Pháp, và sau đó, được dịch sang tiếng Anh Vietnam, a long history, được Nhà xuất bản Thế giới in đi in lại nhiều lần. Năm 2000, cuốn sách này được tặng Giải thưởng Nhà nước. Sách dày hơn 500 trang, giới thiệu với người đọc nước ngoài lịch sử Việt Nam từ thời đại đồ đá cũ xa xăm cho đến tận ngày nay; dành nhiều trang cho thời hiện đại, cho cuộc đấu tranh chống Pháp, chống Mỹ, giành độc lập, thống nhất cũng như cho sự nghiệp xây dựng đất nước và công cuộc đổi mới.

Nhưng thật ra cuốn sách ấy chỉ là một phần nhỏ trong toàn bộ sự nghiệp hết sức phong phú và đa dạng của Nguyễn Khắc Viện. Là nhà học giả uyên bác, ông đã công bố hàng loạt công trình nghiên cứu công phu cũng như nhiều bài tiểu luận thâm trầm về nhiều lĩnh vực: chính trị, sử học, văn học, y học, tâm lý học, thể dục – thể thao… Ông còn là một dịch giả tài hoa, nhuần nhị, một nhà báo nhạy bén, sắc sảo, đầy tinh thần chiến đấu.

Một số ấn phẩm của Nguyễn Khắc Viện. Ảnh tư liệu
Một số ấn phẩm của Nguyễn Khắc Viện. Ảnh tư liệu

Nguyễn Khắc Viện qua đời lúc 2 giờ 45 phút ngày 10-5-1997 tại Hà Nội. Một trong những bài thơ chưa in, do ông để lại, bài Khai bút năm Gà (1993) với phụ đề Tặng một số bạn thường dậy sớm, theo tôi nghĩ, đến nay vẫn là lời nhắn nhủ mang tính thời sự đối với mọi người, trước hết là người trí thức:

Có những người đã thức dậy
Lúc gà chưa gáy
Biết bao người còn ngái ngủ
Gáy lên đi, gà ơi!
Cho đời rộn lên, người người
            tỉnh thức
Bớt si mê trong cơn lốc thị trường
Bớt chìm đắm trong ao tù quan lại
Cho con người đứng thẳng lên
Không quỳ gối thờ đô-la
Không cúi đầu trước quyền lực
Gáy vang lên, hỡi gà ơi!

HÀM CHÂU



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét